Top 20 bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Như ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ” còn Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Hôm nay vcreme.edu.vn sẽ tổng hợp Top 20 bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Mục lục

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà

Mở bài

  • Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
  • Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.

Thân bài

Lời đề từ

  • Lời đề từ “Đẹp vậy thay …”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
  • Lời đề từ tiếp: “Chung thủy …”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.

Hình tượng dòng sông Đà

a. Dòng sông “hung bạo”

  • “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.
  • Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
  • Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”,
  • Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
    • Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
    • Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
    • Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
  • Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người

Sông Đà trữ tình

  • Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.
  • Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …
  • Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …

Hình tượng người lái đò sông Đà

  • Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang phân tích hình tượng ông lái đò.
  • Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu … chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
  • Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
  • Tài năng và tâm hồn:
    • Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hưn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, …
    • Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
    • Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
  • Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

Kết bài

  • Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.

Top 20 bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu số 1

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 – 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò song Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một
mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của
cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo….

… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên
thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến
đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa
vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió
vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu.

Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài mẫu số 2

Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập “Tùy bút sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước “Người lái đò sông Đà” là một thiên tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng thêm.

Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc mưu sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự trở thành hình tượng chân thật và sông động là sự ký thác ý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, văn sĩ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái đò đẹp một cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ dằn mà kỳ vĩ ! Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi ông muốn “ghi” ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà

Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự lồn tại sống động trước thử thách ghê gớm của dòng sông Đà. Ta hình dung như cả một “thạch trận trên sông” dàn giăng muốn bổ chụp hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế ấy, sông Đà mới dữ dội và kỳ quái làm sao: “Nó bầy thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc…”. Trong trận đồ bát quái đó “với đá, nước thác reo hò làm thanh viện… những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt”, sông nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội mà kỳ vĩ ấy, hình tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.

Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả cảm vượt lên sóng dữ: “Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có nghị lực phi thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng nước: “có lúc chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt…”.

Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con người (ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta đấy là cái dữ dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm, đầy bản lĩnh của ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ tợn kỳ quái cùng lao vào trong cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở nên kiêu dũng, quyết liệt đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ bằng dũng khí tuyệt vời bởi ông “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ… Ông lái đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.

Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là “thiên nhiên hay con người đều được chú ý khám phá ở phướng diện văn hóa, mĩ thuật của nó”. Vì thế, ta còn bắt gặp ở đây hình ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp của lòng dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.

Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc “ghì cương” mà “phóng nhanh vào cửa sinh” cho ta thấy ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái bình thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ”… đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Và hình ảnh con thuyền vượt lên “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước…” đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả hê trước sự chiến thắng của ông lái – nghệ sĩ. Và đây – hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh tập trung của sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

“…Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tư do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con người lao động bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một cách nhìn, cách khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới ! Chính vì thế tùy bút “Người lái đò sông Đà” nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về sông Đà của Nguyễn Tuân nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt Nam chúng ta.

Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà của ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của những người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có thật. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu chì có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.

Đọc hết “Người lái đò sông Đà” mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò dũng mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thẳng, vẻ đẹp ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu số 3

Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.

Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông có tập “Vang bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô cùng to lớn. Hoà chung với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi đây được ông ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.

Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như đam mê, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành văn nhạy bén độc đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm đam mê hãi hùng và thích thú vô cùng. Cái hung bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Nhà văn miêu tả, mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi mặt trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.

Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng ngàn cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.

Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước “như những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất chính là ở khúc thác sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.

Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá” rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trông cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn. Vòng thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.

Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó hiểu, thay đổi thất thường.

Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố nhân ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.

Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang không còn là một con sông vô tri mà nó là một sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.

Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người. Thiên nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình tượng “ông lái đò” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần cù chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đối đầu với thiên nhiên hung tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.

Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba vòng thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua. Những người anh hùng vẫn không chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ của mình ông lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hòn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn thì như thách thức ông đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng nước đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch trận thứ nhất”.

Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ hai, lần này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh phát của thần sông Đà”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì cặt cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.

Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là luồng chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông Đà dường như chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn con thuyền trong lần giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích luỹ biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình ông đò đã vượt hết dòng thác một cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp điệu câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái đò sông Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.

Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị vô cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài văn mẫu số 4

Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.

Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào. Nhà văn còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương – tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.

Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài số 5

Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.

Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.

Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.

Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu số 6

Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà” mà con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.

Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác nghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.

Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộnluồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quaquãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người !Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.

Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đãđánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.

Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thácphải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.

Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.

Ở đây dường như là convật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấynhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.

Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên mộtkhung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga,tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài mẫu số 7

Người lái đò sông Đà là một bài trích trong tập Sông Đà. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Ông sông với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu về Sơn La. Thực tiễn xây dựng lại bản làng sau 1954, phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một nổi vui sống bao trùm lên tất cả chen lẫn những cảm tưởng kỳ vĩ về đất nước và Con người cũng như những xúc cảm trữ tình trước cái đẹp lạ lùng và hấp dẫn.

Người lái đò sông Đà là một bài tiêu biểu. Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về con người sông Đà, nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Thành thử mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sông từ nhiều góc độ khác nhau, bộc lộ tâm tư tình cảm đối với con sông đại biểu này, nghĩa là với lối viết của Nguyễn Tuân, con sông Đà đã trở thành con sông của Nguyễn Tuân.

Sông Đà có cả địa lí và lịch sử. “Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng”.

Con sông mà nghe như con người, nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng thành… Ngôn ngữ học bảo đó là nhân hóa, kì thực đó là nghệ thuật hóa, con sông có đời sống, có tính chất rất vững, rất độc đáo. Thời xưa, nhà Trần lấy sông Đà đặt tên cho một trong 15 lộ của cả nước: Đà Giang lộ. Chính vì vậy mà Truyền kỳ mạn lục có truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bối cảnh đời Hồ cuối đời Trần.

Đà Giang lộ là vùng đất từ Hưng Hóa trở lên. Bây giờ ta gọi đó là vùng Tây Bắc, từ Lai Châu xuôi về Hòa Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân) khổng lồ là sông Đà, nhìn từ trên máy bay xuống. Sông Đà có lịch sử và truyền thống cách mạng. Lịch sử dù biến thiên, con sông Đà vẫn là của người dân xứ Tây Bắc nước Việt. Nó dữ, nó hiền là một chuyện, nhưng con người vẫn ăn ở đời với nó.

Không nói chuyện quá xưa, Chỉ gom lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, con người xứ Thái này đã cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, ông Hoàng giáp tuần phủ Hưng Hóa ấy chiến đấu đến cùng và trong thơ nhật kí hành quân của ông đã có bao nhiêu tên đất nước thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó là thời thằng Tây cai trị với đủ bọn lang đạo, địa chủ gian tham độc ác. “Con sông bị chúa đất từng vũng đem cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm! Đế quốc đóng đồn bốt ven sông, tính dữ ác con sông lại tăng thêm mấy lần.

Tuy vậy, người xứ Thái không chịu rời sông. Hơn hai mươi năm sau, công trình thủy điện Hòa Bình đã sắp xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm nên điện và nên hồ. Hồ dài hàng trăm kilômét là cảnh du lịch, là nơi nuôi cá, là đường giao thông thuận lợi, tàu bè lên xuống nhẹ nhàng, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc dù rất nên thơ, hào hùng như thuở xưa.

Mặt khác, chúng ta còn thấy sông Đà dữ, sông Đà anh hùng ca. Tạo được môi trường anh hùng ca phải là cái gì dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải là thiên tài, tôi thiểu là tài ba hiếm có, mà phải là kiên trì, có khi cả liều xông vào chỗ chết để giành lấy cái sống, và cố nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang. Sông Đà quả là một môi trường như thế. Bản chất nó đã vậy. Tài hoa của nhà văn càng làm cho bản chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần.

Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng trời trăng, nhà của, làng bản ven sông là nằm trong cảnh quan của sông, nhưng những cái đó thường hiền hòa, chưa nói tươi đẹp, ấm vui, hoặc không nói hoặc để lùi ra sau. Trước hết nói cái ruột nhất của sông. Cát là vật bình thường nhất chứ gì? Cát trên sông có hại chăng là khi nó thành gò làm thuyền bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nham nhám ấy của sông Đà làm loét cả da nếu chỉ đóng khố chứ đừng nói bận quần, vì nó chui vào bẹn và ăn luôn cả da, còn ở truồng mà lội nước thì “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục thủng đáy và mạn dưới các thuyền gỗ”.

Thế là cát dữ. Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi “nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đúng Ngọ mới có mặt trời. Có vách đá vách chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”. Gió cũng đáng sợ.

Ở quãng ghềnh Hát Loóng là một vương quốc của gió phối hợp với nước, với đá, với sóng thành những cơn xoáy: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng luồng từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” (nợ xuýt: nợ không có cũng đòi), mà không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò lại và “lật ngửa bụng thuyền ra”. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì đáng sợ bằng “cát hút nước”.

Chắc cái tên này không phải của tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, ít ra là từ các vị lái đò trên sông này. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước đương xối êm thấm, bỗng dưng không thấy vướng một vật nào nổi trên mặt nước cả mà dòng nước tới đó cứ xoáy tròn vo thành vòng rất đẹp để trũng xuống một cái lõm như cái lõm đồng tiền trên một đôi má xinh xinh. Ai ngờ đó là chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng nước.

Nước ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy, có lẽ sông Đà mới có. Còn “những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là thuyền mà lạc vào đó thì thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sồng đến mười phút sau mới thấy tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”.

Cái đáng sợ nhất của sông Đà chưa phải là những cái đó mà là đá và thác, thác và đá thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn, Thạch Thủy Trận. Nguyễn Tuân dụng ý trình bày một thứ trận chiến như kiểu Bát trận đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô mà Khổng Minh sáng tạo lại. Cố nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà trận nhưng có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận nhưng có trận trước trận sau, trận trên trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong có dự bị… Không có tướng trấn cửa, Nhưng Nguy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng, Trương Bào nhưng có những tướng đá và quân nước.

Đá thì “ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, có thuyền xuất hiện là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy… Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cùng nhãn nhúm, méo mó”… Tưởng như chúng nằm ngồi rải rác tùy tiện, nhưng không phải. “Hình như sông đã giao việc cho mỗi hòn, sông bày Thạch Trận”, Thạch Thủy Trận. Đá được phân công hẳn hoi. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông.

“Hai hòn canh một cửa đá giữ vai trò dụ cái thuyền đôi phương vào tận tuyến giữa rồi nước sông luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại”. Thuyền không chịu chìm mà cứ tiến lên thì một thế trận khác lại đã sẵn bày. Tướng tá ở đây oai phong lẫm liệt. Có vẻ như các tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu thì hất râu, đá giáp, múa tít cây thương hay cây xà mâu, còn đây thì một tướng đá như “đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một tướng đá khác “lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến lại gần nào”.

Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều lần lượt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng nhử được thuyền. Cuối cùng, “cái thằng đá tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tưởng đâu như sáp bị khép vào tội trong binh pháp: quân thua chém tướng. Hết đá đến nước, quân nước. Đá dưới nước thì ở đâu cũng không hiền. Nước vốn êm dịu. Nhưng kết thân với đá, với gió, nước trở nên hung dữ. Nước sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược. Chỉ lắng nghe tiếng kêu của nước cũng đã thấy ghê ghê. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới.

Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần lại to mãi lên”. Đâu réo có một giọng. “Lúc nghe như oán trách, rồi lại như van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gầm mà chế nhạo”. Bỗng dưng, không biết chuyện gì, “nó rống lên tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn vì da cháy giữa rừng vầu rừng tre bốc lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá chặn, một đằng nước sóng luồng nhằm thuyền mà đánh vu hồi”, đồng thời “reo hò làm thành viện”.

Có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm, một ấm nước sôi khổng lồ”. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút, ở đó “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ ổ gà chỉ có trên đường bộ, đường không. Mặt sông cũng có ổ gà. “Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồi lên.

Nước lại theo luồn. Cho thác, sông có nhiều luồng. Có luồng đi lầm vào thì chết ngay, thì cũng vẫn có thể thập tử nhất sinh như thường”. Lúc khác, nó có thể “đội thuyền lên, bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng lái đò đòi lật ngửa” ông ái cho phơi bụng “giữa trận nước vang trời thanh la bão bạt”. Nước đã thành võ sĩ thực thụ. Nó “đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò, hột sinh dục vụt muốn thót lên cổ.

Bây giờ thì nó là con ngựa bất kham. Nó đang tế mạnh trên sông Đà”. Thế là ông lái “nắm chặt cũ bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh vào cửa sinh”. Nó đành chịu thua. Nhưng đến chỗ cái hút, nó rình sẵn, thuyền nào lơ mơ là nó rút luôn tận đá, chết không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà quả không sai với tiếng đồn. Nó rất dữ. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bẫy người vào chỗ chết.

Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt nhiều con ngươi của mình để có hàng tràng những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đặc sắc, vừa có tính trí tuệ vừa có chất tạo hình, vượt lên trên cả thủ pháp quen gọi là nhân hóa mà đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật thành những trang viết biến hóa khôn lường Bên cạnh cái dữ, chúng ta còn cảm nhận được sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình. Lên thác phải chống băng sào.

Cái hút nước là cái đáng sợ vậy mà tưởng tượng cứ chui xuống đáy nước rồi lia máy quay phim ngược lên “cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tỉnh khối đúc dày…” thì cái hút ghê gớm kia lại trở thành cảnh đẹp không ngờ. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà trông như cái dây thừng ngoằn ngoèo chứ không ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc.

Cũng từ trên không ấy mà nhìn thì có lúc lại thấy sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước sông Đà màu đẹp. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thì nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Màu nọ màu kia hoàn toàn chính xác, điều đó không nói làm gì, nhưng cái áng tóc kia sao lại là áng tóc trữ tình?

Dĩ nhiên đó phải là cái nhìn từ trên trời nhìn xuống và nhìn khắp lượt những từ chân tóc tới đầu tóc, nó buông nó thả, nó uốn nó quanh, nó trải, nó co – thiếu một mùi thơm của nước ướp hoa bưởi và của tuổi xuân tơ – nó là con sông mà sao nó nói bao nhiêu điều cho khách nhìn? Nó lại ẩn hiện chập chờn trong khói đốt nương (điều ấy rất nguy cho núi rừng) và mây trời bung nở trắng xóa hoa ban, đỏ hồng hoa gạo. Tạm coi những điều trên đây là cái nhìn. Còn đây là cái cảm. Tác giả nói ngay: “Con sông Đà gợi cảm”. Mỗi người mỗi khác.

Với tác giả, có lần ông nhìn nó như một cố nhân, một người thân, người thương cũ, lâu ngày mới gặp lại. Cố nhân ấy đã xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi thành một vết loang loáng rồi một màu nắng tháng ba Đường thi “yên ba tam nguyệt há Dương Châu” (thơ Lí Bạch trong bài Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Ôi, cái nắng tháng ba trên sông vừa khói vừa nước sáng loáng, mùa xuân đang lại, nhựa sống lên cành lên thân, lên tim, nó đẹp, nó ấm áp làm sao!

Ông bạn thơ của Lí Bạch ra đi vào cái thời tiết hoa khói ấy có thấy dồn lên trong từng thớ thịt chất men xuân không thì chưa rõ, nhưng ở tác giả đoạn văn này thì ông như trộn lẫn người mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn tan trên sông, của đá ngầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi đầu ngôn búp cỏ tranh đẫm sương đêm, của sông Đà thơ mộng theo hồn Tản Đà “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” và của cả những nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa…

Sông nước, bến bờ, tịnh không một bóng người. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, gần nhất cùng thời Lí Trần. Đẩy cảm nghĩ lên ngược thời gian xưa sơ, bỗng dưng tác giả lại thèm một tiếng còi síplê của một chuyến xe lửa Yên Bái – Lai Châu để cho nổi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại cho cảm nghĩ gồm đủ hai chiều kim cổ.

Cuối đoạn văn trữ tình này, lại là một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước êm đang nhớ các bạn đá ghềnh, của giọng người miền xuôi thoáng rộng, êm êm, của những cánh buồm mở rộng tha hồ đón gió tứ phương trên những con thuyền mình nở chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc tràn ra mênh mang, bất tận. Sông Đà dữ thật nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.

Đặc biệt, sông Đà còn tạo ra những con người cho mình. Ở đó có ông lái đò sông Đà. Ông sinh bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ thuở để chỏm. Chắc chắn ông cũng đã hụp lặn trong lòng sông. Bây giờ nghỉ đò đã vài chục năm sau mười năm lên ngược xuống xuôi, cầm lái sáu chục phen, trăm phen đi về từ Lai Châu tận Hà Nội, bên nào, đá nào, luồng nào mà ông không thuộc.

Từ hình dáng bên ngoài: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cuộc sống sông nước đã rèn cho ông một “thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Cũng cái nghề ấy đã biến tất thảy những lái đò sông Đà chỉ khỏe có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém.

Cử chỉ của ông cũng đều theo dáng lái thuyền: ngắt lời người khác, “ông nhanh như một tay lái rẽ ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo”. Từ hình dáng đến hiểu biết. Lái đò, ông biết con đò. Tại sao thuyền Tây Bắc chỉ mình thon chứ không nở? Không phải vì xứ này thiếu gỗ trái lại, cũng không phải vì không biết thuyền mình nở thì chở được nhiều hàng. Phải đóng thuyền then đuôi én thì mới qua được các cửa luồng đã ọp lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đò sông Đà ở miền cao thì cần sào chống, chèo bơi, cần nữa thì dây kéo, ít khi dùng buồm.

Về dưới xuôi, cần buồm thì “căng hai cây sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và sông Đà thường là vướng núi, cái buồm di động trên sườn núi, vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người hai bờ sông Tây Bắc”. Đến con sông thì coi như ông thuộc tựa lòng bàn tay. Sông Đà, đối với ông, chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bờ trở ngược.

Đời người lái đò sông Đà là một đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe thuật một chuyến xuống thác đủ biết. Lúc đó, thiên nhiên sông Đà là kẻ thù số một. Nhìn nó, thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ mà là một cuộc đấu tranh để giành sự sống từ tay nó về mình.Đá bày trận như thế nào, nước reo, nước rống, nước ặc ào ra sao, luồng nước sinh có đá canh giữ cắn mật, luồng nước tử có đá dụ vào, lúc luồng ở tay trái, lúc luồng ở tay phải, mặt mày thằng tướng đá nào như thế, khi nào thì đè lên đầu luồng mà tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sóng nước mà vượt, vững tay lái ra sao khi chung quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện…

Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rã rời vậy mà qua xong thác, khi làn “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, sóng nước lại thanh bình thì chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Hết thác, sông lại thanh bình thì lòng lái đò cũng bình yên. Chiến đấu gay go vô kể, nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không có gì đáng hồi hộp, đáng nhớ, Sông Đà, đối với ông lái đò, quả là “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

Bản thân ông cũng sống một đời hào hùng, có điều sự hào hùng ấy là chuyện hằng ngày nên ông chẳng coi có gì đặc biệt. Ông đã khuôn người ông vào trong khổ của sông Đà và sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Cũng như anh hàng thịt heo; bởi vì không có cái gì thuộc về sông Đà mà ông không biết. Ngược lại không có cái gì ở ông mà không là hình ảnh sông Đà.

Tóm lại, đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người đã cho như soi trong kính thiên sắc (Thiên sắc kính là đồ chơi trẻ con), chỉ mấy màu mà lắc lên bên này thì một thế giới màu, lắc bên kia lại một thế giới màu khác. Ngòi bút ông lại không chỉ bảy màu mà trăm màu. Cứ từng câu, từng chữ đã thấy thú vị, nếu người đọc chịu chú ý đến từng câu từng chữ, và nhìn thấy giá trị và công sức đã bỏ ra thường là đến bạc tóc như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy.

Đọc Người lái đò sông Đà thấy rõ chủ trương của tác giả về viết văn. Từ ngữ phong phú, tìm tòi hẳn hoi, câu cú vặn vẹo đôi khi nhưng vẫn Việt Nam và nhân dân, hình ảnh ví von luôn bất ngờ, độc đáo mà chính xác, cũng không tránh những hiện thực không thanh nhã, nhưng vẫn đắc địa.

Chi tiết tùy bút này đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học đến cặn kẽ, và trội lên tất cả là một tấm lòng yêu thương con người, đất nước, yêu cái gian khổ đã vượt qua như một bản anh hùng ca, nên càng quý cái mong ước cho tương lai tươi sáng, hạnh phúc.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu số 8

Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ khác nhau. Trong đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính là món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.

Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con sông vô tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và là tuyệt mĩ của tạo hóa.

Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông “dựng vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà thật hùng vĩ, hiểm trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy”. Đáng sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà. Những hút nước này có độ xoáy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu “xoáy tít đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.

Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của Đà giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da cháy bùng bùng”. Câu vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác và thính giác của người đọc, lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận địa con sông Đà. Đặc biệt là cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên không khác gì một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức sử dụng mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân, người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.

Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật trữ tình. Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ kiều diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng con sông. Dòng sông Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ bóng mây”. Dòng sông Đà được Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ, mờ ảo giữ mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.

Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông. Khung cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, “một lương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống, lam mê đắm hồn người.” Bờ sông hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình yên của sông Đà từ ngàn năm trước.

Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo, bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài văn mẫu số 9

Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau – như tác giả nói – “hung bạo và trữ tình”. Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là “kẻ thù số một” của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một “cố nhân” gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,… Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh – Thuỷ Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn […]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: “Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre – plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”.

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Khi đến gần, tiếng nó bỗng “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,…

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu… Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy “lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”. Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” – thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết” – “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác – khung cảnh thơ mộng trữ tình – chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường – một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác..

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài số 10

Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông” Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.

Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sỹ – tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hôi chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.

Quả thật, vẻ đẹp “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của con người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang khuất nẻo. Nếu như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu số 11

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tậpsông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.

Chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả “Người lái đò sông Đà”, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Với ” Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn” trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.

Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già bảy mươi tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: ” Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần” trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ ” Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này ” sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thoạt nhìn, đó là một cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sông nước hò réo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận vời đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo – những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng thác – trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Người xưa vẫn coi ” Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã ” Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thànhvượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.

Ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.Ở trùng vi thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng đánh lừa con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông”Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến ” Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Ông đò người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao.Ở trùng vi thứ ba, ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác.Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó ” Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được” . Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của Sông Đà. Trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. Vậy là thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền. Cuối cùng, vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng, qua bộ mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông.

Cần nói thêm, trong cuộc chiến này nguyên nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó không phải là gì khác hơn sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, và qua đó, khuất phục dòng thác hồng hộc hơi thở của hùm beo. Người lái đò Sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.Ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình ” Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh.

Chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng “Không có gì là hồi hộp đáng nhớ”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang”Chất vàng mười” của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên một chặng vượt thác Sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình ” Tôi nghĩ nếu sau này làm phim màu về Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà.

Trong Người lái đò sông Đà, con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chở thuyền quá đỗi gian nan, cực nhọc, hiểm nguy. Và còn điều nữa: Tất cả những người lái đò trong thiên tuỳ bút, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên tuổi của người nào trong họ. Song cũng lại Nguyễn Tuân cho thấy, những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ. Những người lái đò rất bình thường ấy không mang tên họ của cá nhân. Nhưng vì thế mà trong sự đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã, họ lại hiện lên như đại diện của con người. Có lẽ đấy chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc Nguyễn Tuân quyết tung ra đạo binh hùng hậu của ngôn từ để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thuỷ chiến của ông lái đò với dòng sông để đưa thuyền vượt thác. Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một “Chất vàng” nữa người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. Ca ngợi người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki ” Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”.

Đọc ” Người lái đò Sông Đà” suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm ” Chữ người tử tù” một sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Tất nhiên nhân vật ông đò trong tuỳ bút không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách như nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, cũng vì những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng một quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài mẫu số 12

Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.

Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê, với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.

Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đông thời cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.

Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu số 13

Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.

Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là có một không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô diễn cho bạn đọc thấy hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.

Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện: hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.

Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có gương mặt, tâm trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.

Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm của người lái đò ông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi bút lãng mạn của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi lên từng con sóng, từng đọt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà. Nắm chặt lấy được cái bườm song đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bởi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới sảng khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông lái đò của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.

Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuần còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng, trữ tình của con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng, hiền hòa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có thể biết được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông Đà giờ đây không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vô cùng yểu điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của Nguyễn Tuần. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn đầy xúc cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích không gian và thời gian như vậy.

Với bài bút kí Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà bên cạnh đó còn thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn cuộc đời mình khám phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài văn mẫu số 14

Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm dường như đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), và gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.

Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà văn đã ca ngợi con sông Đà vừa hung dữ nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.

Người lái đò dường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính mạng, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó dường như đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Dường như “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay lập tức có một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.

Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất đó chính là dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm nữa. Nhưng khi mà người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng dường như lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần có một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Dường như mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi cả. Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì thế mà họ nghĩ thế lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài số 15

Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.

Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.

Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.

Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.

Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.

Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.

Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.

Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Mẫu số 16

Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác ghềnh. Bài ca lao động và bài ca ngôn từ song hành trong một áng kí lạ. Thì chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: “Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà, vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ. Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá trị, cái riêng hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ Nguyễn Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống. Có thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng Nguyễn Tuân.

Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng “nóng”: sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in luôn tính nết vào đó: “hung bạo và trữ tình”. Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong phú, đầy hấp dẫn của mình.Đầu tiên là con thác – tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã đành. Đá cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: “Một hòn (đá) ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Trong công thức A = B của so sánh, cái độc lạ của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B.

Trong câu văn trên, ông chêm động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào thói du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác “chết người” nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông. Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt họ phải tự “chiêm nghiệm” cái cảm giác lạ lùng này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đành phèn”. Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít… tạo nên ở người đọc một cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao thế kỉ.Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng mạnh.

Ở đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên hoàn giàu giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đúng là một cảnh tượng man rợ như thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) – tiếng trâu mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân rất lạ: âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, nhưng cao tay nhất là lấy tháclửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.(thủy) so sánh vớiMặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà, Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so sánh.

Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ của mình. Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh, hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như “kẻ thù số một” của con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho một Đà giang trữ tình: “Cái dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, cái “áng tóc trữ tình (…) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”; rồi lại “như một cố nhân” trong nỗi niềm du khách, như “cái miếng sáng lóe lên” trong trò chiếu gương con trẻ, như “một bờ tiền sử”, như “một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”… Những so sánh biến hóa không trùng lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người đọc sửng sốt vì những so sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh ăm ắp tràn bờ…Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho.

Nhà văn phải lao động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì “dòng xanh ngọc bích” mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”, giữa hai mùa ấy là cái “màu nắng tháng ba Đường thi”… Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ thật da diết của con người.Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để ngầm đề cao chính ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách không vừa này, sông Đà “bày thạch trận trên sông” với một thế trận bài bản theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà… Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”. Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí, ông tốc tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà giang và trí lực ông lái phi thường.

Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà: “rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt… Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng… Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ, vẫn thấy nổi lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò. Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến…”. Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu với thiên nhiên để giành sự sống.Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự tổng hòa văn hóa.

Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc… Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi Nguyễn Tuân là người đã nắm vững “binh pháp của ngôn ngữ”. Với một ý thức ngôn từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.

Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền văn Nguyễn Tuân cầu kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự nhận xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được” (Đôi tri kỉ gượng). Nay ngôn ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ của một công dân đầy trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn Tuân đã chở con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng tình yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc đời. Xin chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niễm này: “Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài mẫu số 17

Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng nền văn hoá dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá trị. Nếu như trước cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người “một thời vang bóng” như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.

Trong tùy bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là “kẻ thù số một của con người”. Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.

Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình…cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn búp. Đó đây những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm sương đêm, mọi vật như đang hòa mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người thổn thức: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Sông Đà như một “người cố nhân” lại như một” người nghệ sĩ tài hoa”. Qua cách miêu tả thật độc đáo với những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân thương.

Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò ấy không phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã gần bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần”. Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: “Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Người lái đò như một thứ “vàng mười” đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn”, con người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những “củ khoai nâu” in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao động của con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những thạch trận hiểm nguy, ông không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá… Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và cuộc sống bình yên: “Thế là hết thác… Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam…”.

Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những trang văn của tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Văn mẫu số 18

Nguyễn Tuân – người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời” không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người lái đò sông Đà” (1960). Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau Cách mạng tháng 8.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực chất là mượn hình ảnh ông lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa chân thực, vừa sống động.

Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như con người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa mang tính cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:

“Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc Bắc lưu”

Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan người đọc sông Đà hiện lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam. Nó mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá ở bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươu con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đoạn mặt ghềnh dài hàng ngàn cây số thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước với những âm thanh dữ dội như càng xoáy vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ 3 cả bên trái lẫn bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để ngăn cản những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu thủ chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho quân địch hay kẻ ngoài này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một kiến thức sâu rộng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tư từ nhân hóa, so sánh rõ rệt để làm nổi bật hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn mình là vua của cả thế giới. Con sông ấy hung bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.

Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm dưới ngòi bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ nguồn, ta đều bắt gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi mươi kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, “Sông Đà như một áng tóc mun, dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. Màu nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang một vẻ đẹp huyền bí, quý phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm xúc, như một “cố nhân”.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông Đà mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con sông ấy dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như là một khám phá lớn, một công trình nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.

Song song với hình tượng con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà – một tay lái ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của ông rất độc đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”. Ông quê ở ngã tư sông, là người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền. Ông với con sông Đà gắn bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình. Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững quy luật của “thần sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông am hiểu con sông ấy một cách tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với con sông ấy. Chỉ với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.

Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt thác. Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài năng, bản lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm ấy, ông lái đò hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến trận. Ông chỉ huy con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Đến vòng vây thứ hai, không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng mà phòng nhanh vào cửa sinh. Và ở vòng cuối, ông phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt sau cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”. Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.

Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò là người rất am hiểu binh pháp của thần sông, thần đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng tới – một bức chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.

Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến thức tổng hợp phong phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật người lái đò hùng dũng, hiên ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài văn mẫu số 19

Với bài kì nổi tiếng “người lái đò sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi bật, tài hoa và độc đáo.

Với chất tài hoa tài tử sẵn có trong một tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, một bộ óc uyên bác và lối hành văn cầu kì, độc đáo, Nguyễn Tuân gây ấn tượng với người đọc bởi những tác phẩm cực đẹp. Đối với ông, đã đẹp là phải đẹp đến toàn mĩ, đã dữ dội là phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Và trong một chuyến đi gian khổ và đầy hào hứng đến vùng Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, ông đã tìm thấy cho mình một “nàng thơ” hoàn mĩ: sông Đà với hai “thái cực” mâu thuẫn đến mê hoặc: hung bạo, dữ dội mà trữ tình, đẹp đẽ.

Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong tác phẩm. Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người lái đò sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng.

Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.

Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Những quãng ghềnh thác hãy còn đáng sợ ở cái dữ dằn của gió – nước: quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Cái dữ dội, hung bạo của ghềnh thác được mô tả thành công và sinh động như đang hiện hữu trước mắt người đọc bởi nghệ thuật tài tình của Nguyễn Tuân với hàng loạt các động từ mạnh, câu văn nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “sô” và phần nào dựng nên nhịp điệu hối hả, dồn dập vừa như cái dữ dội, mạnh bạo của dòng nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.

Như vậy rõ ràng ở nơi ấy lòng sông rất hẹp, độ dốc của con thác rất cao, nhiều luồng chết, vực xoáy. Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả bạn đọc. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và cả ngôn ngữ.

Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Sông Đà không khác gì một loài thú dữ đầy ranh mãnh, chực chờ vồ lấy những chiếc thuyền mỏng manh. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy…

Bè gỗ nghênh ngang qua đây vô ý là bị hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những so sánh, ví von “như cửa cống bị sặc”, “như cái giếng bê tông”… đầy gợi hình, gợi cảm của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy cận cảnh cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại. Thế nhưng, giống như đang cùng người đọc ngồi cùng một chiếc thuyền qua sông, Nguyễn tuân lại đưa người đọc đến những cái ghê rợn hơn nữa của dòng sông Đà.

Trước hết là những âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: con sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lau, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến hình ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn khéo, ranh ma.

Tiếp đến là sự hung bạo, dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn nấp để gieo rắc kinh hoàng cho người lái đò. Bằng tri thức sâu rộng về quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa nên một cuộc chiến đầy gay cấn như một quyển binh pháp về đánh trận trên sông Đà. Đá ở đây được chia thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh.

Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá đang bày thế trận, tảng nào, hòn nào “trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng”, “có vị trông oai phong lẫm liệt”, “có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao chiến”. Có vị “lại lùi về một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.

Con thác khúc sông này mới độc áo, xảo quyệt làm sao! Nó như đang mai phục để rồi đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đánh giáp lá cà tì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.

Đồng thời, khi viết về dòng sông, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”.

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Người yêu văn nhận thấy Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình, vô cùng kiều diễm.

Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại.

Cái đẹp của sông Đà, mà cũng có lẽ cũng là nét đẹp trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hiện lên mỗi khác qua mỗi góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay tạt ngang sông Đà, từ trên cao nhìn xuống con sông, điều đầu tiên nhìn thấy lại chính là hình dáng như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây” rất tinh tế và ngưng đọng lại hình ảnh “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”.

Và con sông Đà lại đẹp một kiểu khác nữa, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc đi xuyên rừng đến. Ông đã gọi sông Đà đến ba lần tiếng “cố nhân”. Nguyễn Tuân ấn tượng với cái màu loang loáng của mặt nước như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và ông bất chợt phát hiện trong cái lấp lánh ấy “sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà rập rờn bay bao chuồn chuồn bươm bướm.

Nhà văn vui sướng đắm say khi hội ngộ cùng con sông. Nỗi niềm ấy được ông ví von như niềm vui khi thấy cái “nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “như nối lại chiêm bao đứt quãng” – cái nắng sưởi ấm tình cảm thân thương, gần gũi của tác giả trong cảm giác “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.

Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.

Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động.

Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.

Có thể nói tâm hồn nhà văn như vỗ cánh cùng ước mơ sông Đà đẹp tươi hơn trong ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp và sống động với “áng cỏ sương”, rồi “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” và “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên cứ mở rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ mộng của nhà văn.

Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà và so sánh nó, ví von nó như một áng tóc của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ: “như một áng tóc trữ tình”… Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn.

Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.

Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và tư duy liên tưởng so sánh bất ngờ kết hợp cùng việc sử dụng tài tình ngôn ngữ Tiếng Việt với các cấu trúc câu trùng điệp, phối hợp linh hoạt và đầy sáng tạo các biện pháp tu từ, tác giả đã làm nổi bật lên hình tượng con sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên đất nước. Hình tượng thiên nhiên này cũng chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong giai đoạn mới.

Qua đó, nhà văn cũng bộc lộ được sự tài hoa của mình khi liên tục sáng tạo nên những dáng vẻ biến ảo khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó là sự tài hoa thiên bẩm cùng với nền tảng là một vốn kiến thức uyên bác về cả nghệ thuật lẫn cuộc đời, sự dày công quan sát, tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như tình cảm man mác sâu nặng, đằm thắm và giàu sức sống, đầy tươi trẻ dành cho Tổ quốc.

Tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây . Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước , niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Phân tích phân tích Người lái đò sông Đà – Bài số 20

Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi tên bài thành Người lái đò Sông Đà.

Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất của sông Đà là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của con sông, tác giả đã vận dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.

Trước hết phải kể đến biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà mai phục, hung dữ bày thạch trận để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Nước cũng vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng vào hùa với đá để đánh những miếng đòn “hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp so sánh, tưởng tượng, huy động vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí, quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.

Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường xuyên với thác nước sông Đà. Đó là một con người bình thường, hiền lành với những nét phác họa: “cái đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại…”. Đó là một con người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những cảm giác mạnh. Ông luôn bình tĩnh, ung dung đối đầu với những khó khăn nguy hiểm. Ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. Khi chở đò, ông là nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông lại là một người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.

Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa. Để nói về con sông Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Lý Bạch, thơ B-rô-ni-ép-xki (Ba Lan). Ông vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự, thể thao để viết về con sông hung dữ và thơ mộng. Ông luôn có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng say mê khám phá và thưởng thức cái đẹp. Vẻ đẹp hung dữ và thơ mộng của sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng khi vượt thác thì như một viên tướng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho Nguyễn Tuân. Đúng là nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên về phương diện mĩ thuật và tài hoa.

người lái đò sông đà, phân tích người lái đò sông đà, phân tích bài người lái đò sông đà

Bài viết liên quan